Chữ Hán Nhật văn (漢字- Kanji) là chữ Hán dùng trong tiếng Nhật, và là tập hợp các ký tự tượng hình được vay mượn từ Trung Quốc Kanji là một trong 5 bộ kí tự được dùng trong hệ thống chữ viết tiếng Nhật hiện nay.
Có một số bất đồng về cách thức chữ Hán du nhập vào Nhật Bản, nhưng ý kiến được chấp nhận rộng rãi nhất là các nhà sư đã mang các văn bản chữ Hán vào Nhật vào khoảng thế kỉ thứ 5. Các văn bản này được viết bằng chữ Hán vào và lúc đầu cũng được đọc bằng âm Hán. Tuy nhiên qua thời gian, hệ thống Hán văn (漢文, kanbun) xuất hiện – nó dùng văn bản chữ Hán với dấu thanh cho phép người Nhật đọc nó theo quy tắc ngữ pháp tiếng Nhật.
Lúc bấy giờ tiếng Nhật chưa có dạng chữ viết. Ngay cả hệ thống chữ viết man’yōgana (万葉仮名, vạn diệp giả danh, được dùng trong tuyển tập thơ cổ Man’yōshū) cũng dùng bộ chữ Hán với số kí tự hạn chế nhằm ký âm, chứ không nhằm diễn đạt ngữ nghĩa. Man’yōgana viết ở dạng đường cong trở thành hiragana (ひらがな, 平仮名, bình giả danh), một hệ thống chữ viết dành cho phụ nữ (không được phép tham gia vào nền giáo dục cao). Hầu hết văn chương của phụ nữ vào thời đại Heian được viết bằng hiragana. Song song đó, katakana (カタカナ, 片仮名, phiến giả danh) xuất hiện do được các tu sinh giản lược manyogana thành một thành tố đơn. Hiragana và katakana được gọi chung là kana.
Khi hệ thống chữ viết tiếng Nhật trưởng thành và mở rộng, kanji được dùng để viết một số phần trong câu, như danh từ, tính từ và động từ, còn hiragana được dùng để viết đuôi của động từ (okurigana), từ chỉ có ở tiếng Nhật và từ khó đọc hay nhớ bằng Kanji. Hiragana cũng được dùng trong sách dùng cho trẻ em và khi muốn giảm nhẹ mức độ của từ hoặc lời yêu cầu, thí dụ như từ kudasai (ください, xin vui lòng) và kodomo (子供, trẻ em). Ngược lại, vì có hình dạng góc cạnh, katakana được dùng để biểu thị từ tượng thanh, các âm thô và đột ngột, âm thanh của động vật và từ vay mượn của nước ngoài. Tuy nhiên cần lưu ý rằng việc dùng katakana để viết từ vay mượn chỉ xuất hiện sau này. Lúc đầu, các từ này được viết bằng kanji, dựa theo nghĩa (煙草 tabako, thuốc lá) hay theo phát âm (tempura 天婦羅 hay 天麩羅, tên một món ăn). Ngày nay thì ngược lại. Từ vay mượn, đặc biệt là gốc tiếng Anh, đang nhanh chóng thay thế cả những từ thường dùng có sẵn dạng tương đương trong tiếng Nhật thay vì được dùng để lấp khoảng trống từ vựng. Một giáo sư ngôn ngữ học ước tính đến 1/3 tiếng Nhật văn nói dùng từ vay mượn hay wasei-eigo, từ tiếng Anh được phát minh bởi người Nhật và từ kết hợp như パソコン pasokon (personal computer, máy tính cá nhân)
Hiện nay, tổng số chữ Hán trong tiếng Nhật đang là con số đang bị tranh cãi. Đại Hán họa Từ điển – từ điển chữ Hán được Haruo Shirane đánh giá là cực kỳ đáng tin cậy – có chứa khoảng 5 vạn chữ Hán và được cho là khá đầy đủ. Tuy nhiên những từ điển tiếng Trung gần đây có đến trên 8 vạn chữ Hán, nhiều ký tự bao gồm cả những biến thể rất ít biết đến. Hầu hết số đó đều không phổ biến ở cả Nhật Bản và Trung Quốc.
Chính phủ Nhật Bản đưa ra các kỳ thi “kiểm định thí nghiệm” (Kanji kentei), viết tắt của 日本漢字能力検定試験 (Nihon kanji nōryoku kentei shiken Nhật Bản hán tự năng lực kiểm định thí nghiệm, có nghĩa là “Kiểm tra năng lực nắm bắt chữ Hán trong tiếng Nhật”) để kiếm tra khả năng đọc và viết chữ Hán. Cấp độ cao nhất của kỳ thi này kiểm tra trong phạm vi khoảng 6.000 chữ Hán
Cách đọc
Do cách thức du nhập vào tiếng Nhật, một ký tự kanji có thể được dùng để viết một hoặc nhiều từ (hay hình vị, trong hầu hết các trường hợp) khác nhau. Từ cách nhìn nhận của người đọc, kanji cũng có một hoặc nhiều cách đọc khác nhau. Để quyết định sử dụng cách đọc nào, người ta phải dựa vào văn cảnh, dụng ý, hoàn cảnh phức hợp, thậm chí là vị trí từ kanji đó trong câu. Một số từ kanji thông dụng có từ 10 cách đọc trở lên. Những cách đọc này thường được phân loại thành nhóm on’yomi (hay cách đọc on) hoặc kun’yomi (hay cách đọc kun).
On’yomi (Cách đọc kiểu Hán)
On’yomi (音読み), cách đọc Hán-Nhật, là sự Nhật hóa cách phát âm tiếng Hán của Hán tự vào thời điểm nó được du nhập vào. Một số ký tự Kanji được du nhập từ các vùng khác nhau của Trung Quốc vào các thời điểm khác nhau, dẫn đến có nhiều on’yomi, và thường có nhiều ý nghĩa. Những kanji được phát minh thêm ở Nhật thường không có on’yomi, nhưng cũng có một số ngoại lệ, chẳng hạn ký tự 働 (động) “làm việc”, có kun’yomi là hataraku và on’yomi là dō, hay ký tự 腺 (tuyến), chỉ có cách đọc on’yomi là sen.
Nhìn chung, on’yomi chia làm 4 kiểu:
Cách đọc Go-on (呉音) có xuất xứ từ cách phát âm trong thời kỳ Nam-Bắc triều ở Trung Quốc hay Bách Tế ở Triều Tiên, vào thế kỷ thứ 5 – 6. “Ngô” ở đây chính là nước Ngô ở Trung Quốc (nằm trên địa hạt nay là thành phố Thượng Hải).
Cách đọc Kan-on (漢音) có xuất xứ từ cách phát âm trong thời kỳ nhà Đường vào khoảng thế kỷ thứ 7 – 9, chủ yếu lấy cách phát âm ở kinh đô Trường An (長安,长安) của nhà Đường làm tiêu chuẩn.
Cách đọc Tō-on (唐音) có xuất xứ từ cách phát âm của các triều đại sau đó, như nhà Tống (宋) và nhà Minh (明). Đây là cách đọc chủ yếu được du nhập trong các thời kỳ Heian (平安) cho đến Edo (江戸).
Cách đọc Kan’yō-on (慣用音) là những cách đọc ra đời do bị biến đổi, nhầm lẫn và được người Nhật chấp nhận trong ngôn ngữ của họ.
Các ví dụ (những cách đọc hiếm dùng nằm trong dấu ngoặc đơn)
| Kanji | Hán Việt | Nghĩa | Go-on | Kan-on | Tō-on | Kan‘yō-on |
| 明 | minh | sáng | myō | mei | (min) | — |
| 行 | hành | đi, đến | gyō | kō | (an) | — |
| 極 | cực | cực hạn | goku | kyoku | — | — |
| 珠 | châu | ngọc, châu báu | shu | shu | ju | (zu) |
| 度 | độ | mức độ, trình độ | do | (to) | — | — |
| 輸 | thâu | chuyên chở | (shu) | (shu) | — | yu |
| 雄 | hùng | giống đực, mạnh | — | — | — | yū |
| 熊 | hùng | con gấu | — | — | — | yū |
| 子 | tử | đứa trẻ | shi | shi | su | — |
| 清 | thanh | trong | shō | sei | (shin) | — |
| 京 | kinh | thủ đô | kyō | kei | (kin) | — |
| 兵 | binh | quân, lính | hyō | hei | — | — |
| 強 | cường | mạnh khỏe | gō | kyō | — | — |
Kiểu đọc thông dụng nhất là kan-on. Cách đọc go-on đặc biệt thông dụng trong các thuật ngữ đạo Phật, chẳng hạn gokuraku 極楽 “cực lạc”. Cách đọc tō-on được dùng trong một số từ như isu 椅子 (ỷ tử) “chiếc ghế” hay futon 布団 (bố đoàn) “tấm nệm”.
Trong tiếng Hán, hầu hết các ký tự chỉ có một âm tiết tiếng Hán duy nhất. Tuy nhiên, một số từ đồng chuế khác nghĩa (cùng cách viết, khác ý nghĩa) được gọi là 多音字 (đa âm tự – bính âm: duōyīnzì) như 行 (hành – bính âm: háng hay xíng) (tiếng Nhật: kō, gyō) có nhiều hơn một cách đọc biểu diễn những ý nghĩa khác nhau, điều này cũng được phản ánh ở sự tiếp nhận trong tiếng Nhật. Ngoài ra, nhiều âm tiết tiếng Hán, đặc biệt là các âm tiết với thanh nhập (入声), không tương thích với các âm vị phụ-nguyên âm dùng rộng rãi trong tiếng Nhật cổ. Do đó hầu hết on’yomi được hình thành bởi hai morae (âm tiết hay nhịp), mora thứ hai có thể là sự kéo dài của nguyên âm trong mora thứ nhất, hoặc là một trong các âm tiết ku, ki, tsu, chi, hoặc âm tiết n, và được lựa chọn một cách tương đương nhất so với các nguyên âm cuối trong tiếng Hán trung cổ. Thực tế, các phụ âm vòm ở trước các nguyên âm không phải là i, cũng như âm tiết n, có lẽ đã được thêm vào tiếng Nhật để mô phỏng dễ hơn tiếng Hán; không đặc điểm nào trong số này xảy ra trong tiếng Nhật nguyên gốc.
On’yomi được dùng chủ yếu trong các từ ghép kanji (熟語 jukugo thục ngữ), một số là kết quả do du nhập cùng với chính những ký tự kanji đó từ các từ các từ tiếng Hán do có thể không tồn tại trong tiếng Nhật hoặc không thể phát âm rõ ràng nếu chỉ sử dụng ngôn ngữ bản địa. Quá trình vay mượn ngôn ngữ này tương tự với quá trình vay mượn các từ tiếng Latin hoặc tiếng Pháp Noóc-măng đối với tiếng Anh, hay vay mượn các từ tiếng Pháp hoặc tiếng Anh đối với tiếng Việt; bởi các thuật ngữ mượn tiếng Hán thường có tính chuyên môn hóa uyên bác, âm tiết kiểu cách hơn so với từ bản địa tương ứng. Ngoại lệ đáng kể nhất trong nguyên tắc này là tên họ, trong đó thường sử dụng cách đọc kun’yomi hơn.
Kun’yomi (cách đọc kiểu Nhật)
Cách đọc kiểu Nhật hay cách đọc bản địa, kun’yomi (訓読み), là cách đọc một chữ kanji lấy nghĩa, dựa trên cách phát âm của một từ tương đương tiếng Nhật, tức yamatokotoba. Cách đọc này chuyển nghĩa của kanji sang một chữ tương xứng nhất trong tiếng Nhật. Giống với on’yomi, mỗi kanji có thể có một hoặc nhiều cách đọc. Có khi kanji đó chỉ có on’yomi mà không có kun’yomi.
Lấy ví dụ, ký tự kanji 東, “phía đông”, có cách đọc on’yomi là tō. Tuy nhiên, tiếng Nhật vốn đã có 2 từ mang nghĩa “phía đông” là: higashi và azuma. Do đó, ký tự 東 có những cách đọc kun là higashi và azuma. Ngược lại, ký tự kanji 寸, “thốn”, biểu thị một đơn vị đo chiều dài trong tiếng Hán (xấp xỉ 3 cm), tiếng Nhật bản địa không có từ nào mang nghĩa tương đương. Do đó, nó chỉ có cách đọc on là sun và không có cách đọc kun nào. Hầu hết các kokuji, tức các ký tự kanji do người Nhật tạo ra thêm, chỉ có các cách đọc kun.
Đặc trưng của kun’yomi được quyết định bởi cấu trúc âm tiết (phụ)-nguyên của yamatokotoba. Hầu hết các kun’yomi của danh từ và tính từ thường có độ dài từ 2 đến 3 âm tiết, không tính các ký tự hiragana đi kèm có tên gọi okurigana. Okurigana không được xem là một phần trong bản chất cách đọc của ký tự, mặc dù chúng là một phần trong cách đọc của toàn bộ từ. Người mới học tiếng Nhật có thể ít khi gặp phải các ký tự có cách đọc dài, nhưng những cách đọc có ba bốn âm tiết hay thậm chí nhiều hơn không hề hiếm. Những ký tự như 承る uketamawaru và 志 kokorozashi có đến 5 âm tiết chỉ để biểu đạt một ký tự kanji, đây là những cách đọc dài nhất trong số các kanji nằm trong bộ Jōyō kanji.
Trong một số trường hợp, nhiều hơn một từ kanji được dùng để biểu diễn một từ tiếng Nhật duy nhất. Điều này thường xảy ra khi những từ kanji khác nhau biểu diễn những sắc thái ý nghĩa khác nhau. Chẳng hạn, từ なおす (naosu) có nghĩa là “sửa”, “chữa”, nhưng khi viết là 治す thì mang nghĩa là “chữa bệnh” (sinh vật sống), còn khi viết là 直す thì mang nghĩa là “sửa chữa cái gì đó” (đồ vật). Đặc điểm phân biệt nhiều khi rất rõ ràng nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Sự khác biệt quan điểm giữa các tài liệu tham khảo không phải là hiếm; một cuốn từ điển có thể nói rằng những từ kanji này là tương đương, trong khi một cuốn từ điển khác lại chỉ ra những điểm khác biết trong cách dùng. Kết quả là, người bản địa cũng có thể không nắm rõ từ kanji nào được dùng, họ dựa vào sở thích cá nhân hoặc đành viết từ đó bằng hiragana. Thói quen này thường gặp đối với những trường hợp phức tạp như từ もと moto, có thể viết bằng ít nhất 5 ký tự kanji: 元, 基, 本, 下 và 素, ba ký tự đầu trong số đó chỉ có rất ít sự khác biệt về sắc thái.
Những cách đọc kanji trong ngôn ngữ địa phương cũng được phân loại bằng kun’yomi, cách đọc đáng chú ý nhất là trong tiếng Ryukyu.
Những cách đọc khác
Có nhiều từ ghép kanji sử dụng kết hợp cách đọc on’yomi và kun’yomi, gọi là các từ jūbako (重箱) hay yutō (湯桶), chúng chính là những ví dụ của loại từ ghép này (chúng là những từ tự diễn giải): ký tự đầu tiên của jūbako được đọc bằng on’yomi, ký tự thứ hai dùng kun’yomi, những cách đọc khác liên quan đến yutō. Đó là dạng từ lai trong tiếng Nhật. Có thể kể một số ví dụ khác, như 場所 basho “nơi, địa điểm” (cách đọc kun-on), 金色 kin’iro “màu vàng kim” (on-kun) hay 合気道 aikidō “môn võ Aikido” (kun-on-on).
Một số kanji cũng có những cách đọc ít được biết đến hơn gọi là nanori (名乗り), hầu hết được dùng cho tên người, và thường liên quan đến cách đọc kun’yomi. Tên địa danh đôi khi cũng dùng cách đọc nanori hoặc, thỉnh thoảng hơn, có những cách đọc rất riêng không theo quy luật nào cả.
Gikun (義訓) hay jukujikun (熟字訓 thục tự huấn) là những cách đọc các từ ghép kanji không tương ứng với cả on’yomi hay kun’yomi của mỗi ký tự trong từ đó. Lấy ví dụ, 今朝 (“sáng nay”) không đọc là *ima’asa – tương ứng với kun’yomi của mỗi ký tự -, cũng không đọc là *konchō – tương ứng với on’yomi của mỗi ký tự -, mà được đọc là kesa — một từ tiếng Nhật Bản địa có 2 âm tiết (đây có thể được xem là một hình vị đơn nhất, hoặc sự hợp nhất của 今日 kyō (trước đây là kefu), “hôm nay”, và 朝 asa, “buổi sáng”).
Nhiều ateji (当て字, kanji chỉ dùng để biểu diễn ngữ âm) có các ý nghĩa được suy ra từ cách dùng của chúng: ví dụ, từ cổ 亜細亜 ajia trước đây được dùng để biểu diễn “Asia” (châu Á) bằng kanji; ký tự 亜 (á) ngày nay có nghĩa là “Asia” (châu Á) trong những từ ghép như 東亜 tōa, “Đông Á”. Từ cách viết 亜米利加 amerika, “Hoa Kỳ”, lấy ra ký tự thứ 2, tạo thành từ gần chính thức 米国 beikoku, dịch sát nghĩa là “mễ quốc” nhưng vẫn mang nghĩa “Hoa Kỳ”.
Cách viết
Chữ Kanji là chữ tượng hình, tưởng chừng được tạo nên không theo quy luật nào cả. Tuy nhiên, thực ra, mỗi chữ kanji là sự kết hợp của các bộ thủ khác nhau. Trong chữ Kanji có 214 bộ thủ, bộ thủ ít nét nhất là 1 nét (一), nhiều nét nhất là 17 nét (龠). Bằng cách ghi nhớ các bộ thủ, bạn sẽ dễ dàng hơn khi học thuộc các mặt chữ tiếng Kanji và ý nghĩa của chúng.

Tuy nhiên trong 214 bộ thủ này có những bộ cả đời chỉ gặp 1-2 lần thì với những bộ như vậy chúng ta không cần phải học, những bộ phức tạp sẽ do những bộ đơn giản cấu tạo thành nên chúng ta không cần phải học hết đầy đủ 214 bộ. Những bộ thủ căn bản và thường sử dụng nhất gồm khoảng 80 bộ dưới đây:
STT |
Bộ |
Tên Hán Việt |
Ý nghĩa |
| 1 | 一 | Nhất | Một, là số đứng đầu các số đếm. Phàm vật gì chỉ có một đều gọi là Nhất cả. |
| 2 | 丨 | Cổn | Nét sổ, đường thẳng đứng trên thông xuống dưới. |
| 3 | 丶 | Chủ | Nét chấm, một điểm. |
| 4 | 丿 | Phiệt | Nét phẩy bên trái của chữ Hán, nét sổ từ phải qua trái. |
| 5 | 乙 | Ất | Can thứ hai trong mười can (Giáp, Ất, Bính, Đinh…). |
| 6 | 亅 | Quyết | Nét sổ có móc. |
| 7 | 亠 | Đầu | Không có nghĩa, thường là phần trên của một số chữ khác. |
| 8 | 人 | Nhân | Người, có hai chân, là sinh vật đứng thẳng, còn có dạng nhân đứng 仁. |
| 9 | 儿 | Nhân (đi) | Người, như hình người đang đi. |
| 10 | 冂 | Quynh | Đất ở xa ngoài bờ cõi, như vòng tường bao quanh thành lũy. |
| 11 | 冖 | Mịch | Khăn chùm lên đồ vật, che đậy, kín không nhìn thấy rõ. |
| 12 | 刀 | Đao | con dao. Còn hình thức khác là刂thường đứng bên phải các bộ khác. |
| 13 | 勹 | Bao | Bọc, gói, khom lưng ôm một vật. |
| 14 | 匕 | Chủy | Cái thìa. |
| 15 | 卩 | Tiết | Đốt tre, một chi tiết nhỏ trong một sự vật hoặc hiện tượng. |
| 16 | 厂 | Hán | Chỗ sườn núi có mái che người xưa chọn làm chỗ ở. |
| 17 | 厶 | Tư, Khư | Riêng tư. |
| 18 | 又 | Hựu | Cái tay bắt chéo, trở lại một lần nữa. |
| 19 | 口 | Khẩu | Miệng (hình cái miệng). Phân biệt bộ khẩu với bộ vi: bộ khẩu cạnh “trên rộng, dưới hẹp”, bộ vi trên dưới bằng nhau |
| 20 | 囗 | Vi | Vây quanh ( phạm vi, ranh giới bao quanh ). |
| 21 | 土 | Thổ | Đất ( Gồm bộ nhị 二với bộ cổn丨 như hình cây mọc trên mặt đất ).Cần phân biệt với bộ Sỹ. bộ thổ nét ngang ở dưới dài hơn nét ngang ở trên, còn sỹ thì ngược lại |
| 22 | 夊 | Truy, Tuy | Dáng đi chậm chạp, theo sau mà đến kịp người đi trước. |
| 23 | 夕 | Tịch | Đêm tối ( nửa chữ nguyệt – mặt trăng vừa mọc phần dưới chưa thấy rõ ). |
| 24 | 大 | Đại | Lớn ( hình người dang rộng hai tay và chân ). |
| 25 | 女 | Nữ | Con gái ( Như người con gái chắp tay trước bụng thu gọn vạt áo ). |
| 26 | 子 | Tử | Con ( Hình đứa trẻ mới sinh ra cuốn tã lót không thấy chân ). |
| 27 | 宀 | Miên | Mái nhà. |
| 28 | 寸 | Thốn | Tấc, một phần mười của thước. |
| 29 | 尸 | Thi | Thây người chết, Thi thể. |
| 30 | 山 | Sơn | Núi |
| 31 | 巾 | Cân | Cái khăn ( Hình cái khăn cột ở thắt lưng hai đầu buông xuống ). |
| 32 | 幺 | Yêu | Nhỏ nhắn ( hình đứa bé mới sinh ). |
| 33 | 广 | Nghiễm, Yểm | Mái nhà ( Nhân chỗ sườn núi làm nhà, cái chấm ở trên là nóc nhà ). |
| 34 | 廴 | Dẫn | Bước dài |
| 35 | 弋 | Dực ( Dặc ): | Cái cọc, cột dây vào mũi tên mà bắn, cọc buộc súc vật. |
| 36 | 弓 | Cung | Cái cung để bắn tên. |
| 37 | 彳 | Xích ( Sách ) | Bước ngắn, bước chân trái. |
| 38 | 心 | Tâm | Tim. Cách viết khác: 忄Hoặc chữ tiểu thêm nét phảy bên phải (小丶). |
| 39 | 戶 | Hộ | Cửa một cánh. ( Một nửa chữ môn 門 cửa rộng hai cánh ). |
| 40 | 手 | Thủ | Tay. Cách viết khác: 扌, 才. |
| 41 | 攵 | Phộc | Đánh nhẹ, đánh khẽ. Cách viết khác攴. |
| 42 | 斗 | Đấu ( Đẩu ) | Cái đấu, đơn vị đo lường lương thực. ( Đấu thóc, đấu gạo ). |
| 43 | 日 | Nhật | Mặt trời, ban ngày. |
| 44 | 木 | Mộc | Cây, gỗ ( hình cây có cành và rễ ). |
| 45 | 欠 | Khiếm | Khiếm khuyết, khiếm nhã ( Há miệng hả hơi ra ngáp ). |
| 46 | 水 | Thủy | Nước ( hình dòng nước chảy ). Cách viết khác: 氵. |
| 47 | 火 | Hỏa | Lửa. Cách viết khác: 灬. |
| 48 | 牛 | Ngưu | Con bò. Cách viết khác: 牜. |
| 49 | 犬 | Khuyển | Con chó. Cách viết khác: 犭. |
| 50 | 田 | Điền | Ruộng ( hình thử ruộng chia bờ xung quanh). |
| 51 | 疒 | Nạch | Bệnh tật ( Người bện phải nằm trên giường ). |
| 52 | 示 | Kì ( Thị ) | Thần đất, báo cho biết trước mọi điều một cách thần kỳ. Cách viết khác: 礻. |
| 53 | 禾 | Hòa | cây lúa. |
| 54 | 竹 | Trúc | Cây Tre, Hình thức khác: 竺. |
| 55 | 糸 | Mịch | Sợi tơ nhỏ. |
| 56 | 老 | Lão | Già ( người cao tuối râu tóc đã biến đổi ). |
| 57 | 耳 | Nhĩ | Tai để nghe. |
| 58 | 艹 | Thảo | Cỏ. Cách viết khác: 丱, 艸. |
| 59 | 衤 | Y | Áo. Cách viết khác: 衣. 礻. |
| 60 | 言 | Ngôn | Nói ( hội thoại ). |
| 61 | 豕 | Thỉ | Con Heo (Lợn). |
| 62 | 貝 | Bối | Con Sò ( Ngày xưa dùng vỏ sò làm tiền – tượng trưng cho của quí ). 礻. |
| 63 | 走 | Tẩu | Chạy |
| 64 | 辶 | Sước, Xước | Chợt đi chợt dừng lại. Cách viết khác: 辵. |
| 65 | 阝 | Phụ | Núi đất, đống đất, gò đất. Cách viết khác: 阜. |
| 66 | 門 | Môn | Cửa |
| 67 | 阝 | Ấp | Nước nhỏ trong nước lớn, lãnh thổ vua ban cho chư hầu, làng. Cách viết khác: 邑 |
| 68 | 隹 | Chuy | Một cái tên chung để gọi giống chim đuôi ngắn. |
| 69 | 雨 | Vũ | Mưa |
| 70 | 頁 | Hiệt | Cái đầu. |
| 71 | 米 | mễ | gạo |
| 72 | 足 | túc | chân, đầy đủ |
| 73 | 力 | lực | sức mạnh |
| 74 | 士 | sỹ | quan |
| 75 | 玉 | ngọc | đá quý, ngọc |
| 76 | 目 | mục | mắt |
| 77 | 車 | xa | xe. Cách viết khác: (车) |
| 78 | 馬 | mã | con ngựa. Cách viết khác:( 马) |
| 79 | 食 | thực | ăn. Cách viết khác:( 飠-饣) |
| 80 | 虫 | trùng | sâu bọ |
Ngoài ra các bạn có thể tra từ tại http://app.kanjialive.com/
Nguồn: sưu tầm tổng hợp từ
hikariacademy.edu.vn
wikipedia.org