Trước khi nghiêm túc học một ngôn ngữ nào, thì chúng ta phải nắm rõ căn bản trước thì mới tiến xa được. Đối với tiếng Nhật, cũng như tiếng Việt, hệ thống văn tự của nó cũng có bản chữ cái, nhưng phức tạp hơn ở chỗ nó sử dụng song song nhiều bản chữ cái khác nhau. Hệ thống chữ viết tiếng Nhật có ba loại khác nhau: chữ Hán (Kanji), bảng chữ cái Hiragana và Katakana. Ngoài ra, có một hệ thống chữ cái của tiếng Nhật với bảng chữ cái La Mã gọi là Romaji. Ba hệ thống chữ cái đầu tiên được sử dụng hỗn hợp hàng ngày, tức là trong một câu có thể kết hợp của tất cả ba loại chữ cái trên.
Trong lịch sử bảng chữ cái tiếng Nhật Hiragana đã được coi là chữ viết của phụ nữ. Và một trong những tác phẩm kinh điển của văn học Nhật Bản – The Tale of Genji của tác giả nữ Murasaki Shikibu trong thế kỷ 11, được viết bằng bảng chữ cái tiếng Nhật này.
1. Hiragana trong tiếng Nhật chủ yếu được sử dụng trong những tình huống sau:
Tiếp vị ngữ của động từ, hình dung từ, hình dung động từ, như tabemashita (食べました, “đã ăn”) hay thường là các bộ phận của trợ từ, trợ động từ như kara (から, “từ” (từ đâu đến đâu)) hay tiếp vị ngữ ~san (さん, “Ông, bà, cô…”).
Đối với các từ mô tả sự vật đã được người Nhật gọi tên từ lâu, không có chữ Hán tương ứng. Ví dụ: meshi (めし, “thức ăn”), yadoya (やどや, “nhà trọ”).
Trong những trường hợp nói chung là sử dụng kana chứ không dùng Kanji, cũng không dùng Katakana.
Bảng chữ cái Hiragana cơ bản: có 2 phần là nguyên âm, và nguyên âm đôi, như sau:

Những phụ âm kép như にゃ, にゅ và にょ không nên nhầm lẫn với chuỗi んや, んゆ và んよ. Việc kết hợp に với các chữ nhỏ hình thành nên một mora, trong khi chuỗi chữ ん đi kèm với các chữ hàng や lớn tạo thành hai mora. Ví dụ như かにゅう ka-nyu-u, (加入 gia nhập) và かんゆう ka-n-yu-u (勧誘 khuyến dụ), nghe khác nhau rõ ràng, mặc dù kiểu chữ viết Latinh có thể viết giống nhau là kanyu. Trong hệ thống Hepburn, ta có thể phân biệt với dấu phẩy: kanyū và kan’yū.
2. Cách viết như sau: